Thứ Năm, 21 tháng 11, 2013

SAI LỖI VÀ XIN LỖI

SAI LỖI VÀ XIN LỖI


Mỗi người sửa mình một chút – đời sẽ đẹp biết bao! 
Mùa chay là mùa sám hối. Sám hối không chỉ là hối tiếc trước một việc sai trái đã qua. Sám sối chủ yếu là thấy sai để sửa. Sám hối là biết hối lỗi và biết xin lỗi.      
Sai và sửa sai, lỗi và xin lỗi là một chuyện bình thường có tính quy luật. Bởi vì sai mà không sửa, lỗi mà không xin lỗi, sửa sai xin lỗi không kịp thời thì không những không có tiến bộ mà còn ngày càng lún sâu trong vực thẳm suy vong.      
Là con người, ai cũng có sai sót, lầm lỗi, không trừ một ai. Chỉ có điều là có những người không có khả năng thấy được sai lầm, thậm chí còn cho rằng mình không thể phạm sai lầm, thiếu sót, hoặc đã thấy mình sai lỗi nhưng không chịu thừa nhận, hoặc có thừa nhận nhưng không chịu sửa chữa, không xin lỗi, hoặc có sửa chữa mà cũng không thành thật, không quyết tâm cho đến cùng.      
Từ xưa, các bậc minh triết đã cho rằng việc thấy được sai lỗi của bản thân mình, có dũng khí để công khai thừa nhận và có quyết tâm sửa chữa những sai lỗi đó là những dấu chỉ của một con người chân chính, trung thực, đáng cho mọi người tin cậy và kính trọng.      
Trong kho tàng thành ngữ điển tích của Trung hoa ngày xưa có những câu chuyện giàu ý nghĩa : “Thửa xưa, người nước Trịnh hay đến họp nhau ở trường học trong làng để bàn về những ưu khuyết điểm của nhà cầm quyền. Lúc ấy Tư Sản làm tướng, có người khuyên ông nên huỷ trường học đó đi. Tư Sản nói : Cứ để chỗ cho họ lấy chỗ họp bàn với nhau, điều gì cho là phải thì ta làm, điều gì cho là trái thì ta đổi, những người ấy chính là thầy học của ta đó, việc gì mà phải huỷ ?”.      
Các bậc thánh hiền dạy rằng : nếu mắc sai lỗi thì công khai nhận sai lỗi đó, rồi tìm nguyên nhân sai lỗi và đề ra biện pháp và quyết tâm sữa chữa.Thái độ đối với sai lỗi như thế là thước đo một người chân chính.
Nhiều người than phiền rằng: ngày nay tiếng cảm ơn và xin lỗi, bài học về phép lịch sự đầu tiên của mỗi người dường như đang bị nhiều người trẻ lãng quên. Tiếng cảm ơn xin lỗi đang thưa dần...
Tiếng “cảm ơn” thốt ra làm người nói và người nghe đều vui. Đó là nền tảng đạo đức. Có những gia đình coi trọng việc giáo dục con cái, cha mẹ vẫn nói tiếng “cảm ơn” con mình như một tấm gương soi. Lời cảm ơn đã trở thành một thứ văn hóa ứng xử.
Từ “xin lỗi” cũng vậy, khi làm việc gì tổn thương tới người khác, ta “xin lỗi”. Lỡ chạm vào một người đi gần, lỡ va quẹt khi đi xe, lỡ nói một lời làm tổn thương, ta đều “xin lỗi”.
Từ nhiều năm trở lại đây, nền tảng đạo đức đang mờ nhạt dần. Tiếng “cảm ơn” đã thưa thớt. Hình như người ta không biết đến nó hay đã cố quên đi. Có lẽ ai trong chúng ta cũng từng chứng kiến nhiều trường hợp người hỏi thăm đường, hỏi thăm nhà không cần “cảm ơn”. Người đánh rơi đồ vật được người đi đường lượm giúp cũng không cần “cảm ơn”, mà trong số đó, đâu ít trường hợp là sinh viên, học sinh hay công chức.
Từ “xin lỗi” cũng cùng chung số phận. Người ta đã ít dùng đến nó. Người ta không muốn nhận lỗi, cho dù họ đã làm tổn thương đến người khác. Chuyện nhỏ đã đành, chuyện lớn cũng vậy. Và trong đời sống, dần dần có một số đông người đã không hề biết đến hai cặp từ “cảm ơn” và “xin lỗi”.
Nhận ra lầm lỗi của mình là điều rất khó. Có người ví von rằng mỗi người đều mang một gùi đầy tội sau lưng và một gùi công đức trước ngực. Vì thế, người ta chỉ thấy công đức mà không thấy được lầm lỗi của mình. Ông Dale Carnegie, một học giả trứ danh người Mỹ viết nhiều cuốn sách nổi tiếng được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới quả quyết rằng: “Tôi đã bỏ ra gần 70 năm trong đời để khám phá ra chân lý nầy là dù người ta có lỗi nặng đến đâu, thì trong 100 lần phạm lỗi thì có tới 99 lần người ta tự cho mình là vô tội.”.
Bạn thân mến,
"Xin lỗi" là một tiếng thường dùng trong giao tiếp và quan hệ giữa xã hội. Xin lỗi có sức mạnh và giá trị đặc biệt, cần tập luyện để mỗi người sống tốt đẹp các mối quan hệ hàng ngày.
Sức mạnh của lời xin lỗi
Năm Thánh 2000, năm Đại Toàn Xá, ĐGH Gioan Phaolô II đã ngõ lời xin lỗi thế giới về những lỗi lầm của Giáo hội trong quá khứ. Nhiều tổng thống, thủ tướng, thượng nghị sĩ hay những người nổi tiếng phải triệu tập những cuộc họp báo để xin lỗi công chúng vì những hành động hay lời nói của họ.
Tại sao lời xin lỗi lại quan trọng đến như thế? Xin thưa là bởi vì, lời xin lỗi có sức mạnh hoá giải, làm hoà và đi đến hoà bình.
Có một người con trai rất giận dỗi và không nói chuyện với bố mình. Ông ấy chỉ lo công việc mà không dành nhiều thời gian cho con cái. Một hôm ông nói: "Con trai, bố thực sự xin lỗi con vì cứ mải mê theo đuổi sự nghiệp mà không thể ở bên con, nhưng thực sự bố rất yêu con". Thật là kỳ diệu. Họ ôm nhau và lần đầu tiên trong nhiều năm qua, họ thực sự bắt đầu nói chuyện thân mật với nhau.
Chúng ta làm những điều sai lỗi, gây nổi buồn cho người khác. Chúng ta phê phán công việc của người khác trước đám đông, nói một điều làm ai đó tổn thương, rồi biện minh rằng: "Tôi chỉ đang đùa thôi". Không dễ dàng để nói một lời xin lỗi. Nhưng lời xin lỗi có một sức mạnh diệu kỳ. Bạn đã kinh nghiệm chưa?
 Giá trị của lời xin lỗi
Biết nói lời xin lỗi, chứng tỏ ta có lòng kính trọng và thiện cảm đối với người bị hàm oan.
Xin lỗi có khả năng hóa giải cơn giận. Xin lỗi ngăn chặn các hiểu lầm nhau. Lời xin lỗi như liều thuốc chữa lành mọi vết thương lòng.
Xin lỗi mở cánh cửa tha thứ, giúp con người cảm thông với nhau.
Khi lỡ xúc phạm đến ai, ta cảm thấy hối hận và xấu hổ rồi bần thần, áy náy lương tâm. Khi ngõ lời xin lỗi, ta tìm đựơc bình an tâm hồn, cảm nhận sự thanh thản và thân thiện với anh em.
Biết lỗi và xin lỗi là dấu chỉ của một con người khiêm nhường.
Xin lỗi có một lối đi từ trái tim đến trái tim. Thành tâm, không giả tạo, mang đến nhiều lợi ích trong ứng xứ.
Một lời xin lỗi chân thành có sức mạnh vĩ đại, có khả năng biến đổi đời người, cho cả người xin và kẻ nhận.
Nghệ thuật nói xin lỗi 
Bạn vừa “trót dại” gây lỗi lầm, làm tổn thương đến anh em. Bạn muốn nói lời xin lỗi. Ồ ! sao khó quá! Vừa xấu hổ, vừa tự mãn, nói làm sao đây? Đừng bối rối, hãy làm theo những bước sau đây, bạn sẽ tìm lại niềm vui.
Chịu trách nhiệm: Bước đầu tiên để xin lỗi là phải tự thừa nhận với bản thân rằng bạn đã có hành vi không tốt với ai đó. Bạn có thể nhận ra điều đó ngay hoặc phản ứng của người khác cho bạn biết đã làm một chuyện gây tổn thương.
Giải thích: Điều quan trọng là phải cho người bị tổn thương biết bạn không cố ý làm như thế. Đồng thời bạn phải thể hiện sự hối lỗi vì đã làm phiền đến họ.
Bày tỏ sự ân hận: Sẽ chẳng tác dụng nếu bạn nhận lỗi với người khác mà khuôn mặt tỉnh bơ, chẳng cảm xúc gì. Hãy thể hiện sự ăn năn, hối hận của bạn khi làm tổn thương người khác. “Mình cảm thấy rất hối hận khi nói ra bí mật của bạn. Mình rất xấu hổ với bản thân”, đó là một cách nói.
Sửa chữa lỗi lầm: Sau bao nỗ lực, bạn vẫn chưa thể hoàn thành được lời xin lỗi nếu chưa sửa chữa được sai lầm do mình gây ra. Nếu bạn làm hư hỏng tài sản của ai đó, hãy đề nghị được sửa chữa hoặc thay mới nó. Trong trường hợp thiệt hại vật chất không rõ ràng, hãy hỏi xem liệu bạn có thể làm gì. Ngoài ra, bạn cũng có thể “bồi thường” bằng cách gửi tặng “nạn nhân” của bạn một món quà nhỏ xinh xắn.
Chọn đúng thời điểm: Với những lỗi nhỏ như va phải ai đó, bạn hãy xin lỗi ngay, chớ để đến hôm sau. Sự khó chịu tích lũy theo ngày từ phía người bị bạn gây lỗi sẽ dẫn tới những căng thẳng không cần thiết trong mối quan hệ của hai người.
Nếu lỗi lầm nghiêm trọng hơn, như xúc phạm một người bạn, thì cần phải suy nghĩ nhiều hơn về lời xin lỗi. Trong trường hợp này, một sự xin lỗi quá nhanh chóng sẽ trở thành giả tạo, không chân thành. Đó không phải là chuyện ai “thắng” hay ai “thua” mà là làm sao để giữ được một mối quan hệ. 
Gợi ý:
- Nhận lỗi càng sớm càng tốt. Nếu để vài tuần vài tháng sau, lời xin lỗi sẽ chẳng còn đơn giản là: “Mình xin lỗi” nữa.
- Nói về lỗi lầm của bạn với ngôn ngữ rõ ràng, tránh úp mở, mơ hồ. Hãy ngắn gọn và đi thẳng vào vấn đề. Nếu có “tình tiết giảm nhẹ” cho việc làm của bạn, nhớ đề cập đến ngay.
- Giọng điệu là điều rất quan trọng. Lời xin lỗi phải được nói ra một cách chân thành nhất có thể. Và tránh lời xin lỗi chung chung như: “Mình rất tiếc vì những gì đã xảy ra với bạn”. Hãy nói “Mình rất hối hận vì việc làm của mình”.
- Sau khi xin lỗi, hãy giữ yên lặng và lắng nghe người đó nói về cảm giác của họ như thế nào. Lời xin lỗi nhờ đó sẽ thực sự hiệu quả.
- Hãy nhận bồi thường thiệt hại khi cần, nhưng đừng hứa hẹn quá khả năng của bạn.
Bạn thân mến,     
Mùa chay là mùa sám hối để canh tân, sám hối để thấy được những sai lỗi bản thân, canh tân để sửa sai và đổi mới con người mình. Sám hối chính là từ bỏ đường xưa lối cũ, từ bò những tính hư tật xấu để bước vào đời sống mới với nhũng tâm tình tốt lành, thánh thiện. Sám hối là cải tà quy chính, từ bỏ, cắt đứt, đoạn tuyệt cái cũ xấu xa bất chính, từ đó mặc lấy con người mới,trở thành thụ tạo mới (Gal 6,15) mở lòng đón nhận ơn Chúa, mở ra những quan hệ tốt lành với anh em.      
Lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu :” Thời kỳ đã mãn, nước Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin mừng” (Mc 1,15). Gioan Tẩy Giả cũng khởi đầu sứ vụ bằng lời kêu gọi ấy :”Hãy ăn năn sám hối, vì Nước Trời gần đến” (Mt 3,2). Sám hối là điều kiện thiết yếu để vào Nước Trời. Không ai có thể vào Nước Trời, không ai có thể làm môn đệ Chúa Kitô nếu không sám hối, không thay đổi tâm hồn cho hợp với sứ điệp Tin mừng. Nói một cách bóng bẩy, Chúa Giêsu dạy người ta phải sinh lại một lần nữa (x.Ga 3,3), hoặc trở nên như trẻ nhỏ (x Mt 18,3); phải mặc y phục lễ cưới khi vào dự tiệc cưới Nước Trời (x.Mt 22,12); phải đựng rượu mới trong bình mới (x.Mt 9,17)…       
Kinh nghiệm đầu tiên mà Thánh Phêrô chia sẽ cho cộng đoàn Giáo Hội sơ khai là: anh em hãy sám hối. Ba lần chối Thầy vì yếu đuối bản thân chứ không phải vì không yêu mếnThầy. Phêrô đã biết lỗi lầm đó và ngài đã ăn năn bằng những giọt nước mắt sám hối chân thành. Phêrô đã sửa sai lầm bằng chính sự can đảm, thái độ hiên ngang,bằng một tình yêu nồng nàn với Thầy trong sứ vụ Tông Đồ của mình. Đối với Phêrô, sám hối là bước đi thứ nhất của hành trình lãnh nhận Thánh Thần. Không có sám hối thì không có ân huệ Thánh Thần. Đó là kinh nghiệm bản thân và cũng là gương sáng của Thánh Phêrô :”đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên” (1Pr 5,3). Gương sáng của Thánh Phêrô trước hết là gương sám hối, thấy sai lỗi và sữa sai đến cùng. Ngài muốn chia sẽ bài học thấm thía ấy với những người đang cùng mình giữ trọng trách mục tử.      
Thánh Phaolô cũng bằng chính kinh nghiệm cuộc đời mình đã chia sẽ rằng :sám hối là làm hoà lại với Thiên Chúa. Phaolô, người lãnh đạo nhiệt thành bắt bớ Đạo Chúa, được ơn sám hối, đã sửa sai lỗi lầm, từ đó ngài làm hoà với Chúa để nên Tông Đồ dân ngoại. Theo Thánh Phaolô, tội lỗi đã phá huỷ những liên hệ hài hoà giữa con người với Thiên Chúa, sám hối là tái lập những liên hệ ấy. Thời gian sám hối là thời Thiên Chúa thi ân, thời Thiên Chúa cứu độ.      
Mỗi người chúng ta đều có kinh nghiệm về sai lầm bản thân, về sự đỗ vỡ, sự bất hoà. Hai người bạn trở nên lạnh nhạt, hai người tình bổng hoá xa lạ, hai vợ chồng trở thành dửng dưng. Đổ vở bất hoà sinh ra hiểu lầm, đau khổ, tiếc nuối. Khi đổ vở, phía nào thấy sai để sửa chữa, phía nào yêu nhiều hơn sẽ chủ động tìm cách làm hoà, hàn gắn lại. Không ai không phạm sai sót lỗi lầm. Người ta chỉ khác nhau ở chỗ đối xử với sai lỗi của mình như thế nào mà thôi.      
Sám hối và canh tân, nhận ra sai sót lỗi lẫm và sửa đổi không chỉ là việc làm trong mùa chay mà là suốt đời người. Và để sống cho cả đời người, mời bạn cùng đọc và suy niệm Tin Mừng (Mt 18, 15-20). Chúa Giêsu là một nhà giáo dục tài ba, khéo léo, thu phục lòng người. Ngài chinh phục con người bằng cái tâm, bằng tấm lòng chứ không phải bằng luật lệ, bằng lý trí. Chúa Giêsu là thầy dạy. Bạn hãy học với Ngài, bạn sẽ thấy cuộc đời tuyệt đẹp và chan chưa niềm vui.                                                         
Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Tác giả: Lm. Nguyễn Hữu An

50 NĂM THỜ CÚNG TỔ TIÊN

50 NĂM THỜ CÚNG TỔ TIÊN - CHIA SẺ 30 : ĂN GIỖ VÀ CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI ĐÃ KHUẤT

Kỵ giỗ khiến bà con lương dân chạm phải một bí ẩn về mặt tâm linh: Một đàng trực giác thấy người thân chưa siêu thoát, còn phải được thanh luyện (đến hết đời thứ năm), một đàng lại thấy có thể xin họ độ trì? Làm sao họ có thể độ trì được ai khi họ chưa siêu thoát….
Trước những mơ hồ gây khó khăn và lúng túng, sự nhập cuộc của người Công giáo có thể góp thêm hơi ấm. Hơn nữa, với giáo lý minh bạch của Đạo Chúa, họ còn có thể đem lại ánh sáng và bình an giúp bà con đồng tộc lý giải được để có thể vượt khỏi một số khó khăn bế tắc.
Tháng Mười Một, tháng cầu nguyện cho các đẳng linh hồn và cũng là tháng kính nhớ Tổ tiên. Người Công giáo vẫn tự hào mình nhớ đến Tổ tiên không chỉ trong ngày giỗ hay ngày mùng hai Tết mà suốt tháng Mười Một, và cả trong thánh lễ hằng ngày của bất cứ tháng nào. Rõ là người Công giáo không “bỏ ông bỏ bà” tí nào!
Tuy nhiên ta cần lưu ý để không giản lược khái niệm "kính nhớ Tổ tiên" vào việc "cầu hồn". Theo mục từ "Giỗ" trong từ điển Vi.Wikipedia, ngày giỗ thường (từ năm thứ ba trở đi) được duy trì đến hết năm đời, sau năm đời thì được siêu thoát, không cần "giỗ" riêng nữa. Ngày "giỗ" có liên quan với việc "cầu hồn" tuy nhiên nó lại vượt xa hơn việc cầu hồn. Xin lược trích:
"Trong thờ cúng tổ tiên, có 3 ngày giỗ: Giỗ Đầu, Giỗ Hết, Giỗ Thường.
Giỗ Đầu gọi là Tiểu Tường, là ngày giỗ đầu tiên sau ngày người mất đúng một năm, nằm trong thời kỳ tang, là một ngày giỗ vẫn còn bi ai, sầu thảm. Thời gian một năm vẫn chưa đủ để làm khuây khỏa những nỗi đau buồn, xót xa buồn tủi trong lòng của những người thân. Trong ngày Giỗ Đầu, người ta thường tổ chức trang nghiêm không kém gì so với ngày để tang năm trước, con cháu vẫn mặc đồ tang phục. Lúc tế lễ và khấn Gia tiên, những người thân thiết của người quá cố cũng khóc giống như ngày đưa tang ở năm trước.
Giỗ Hết gọi là Đại Tường, là ngày giỗ sau ngày người mất hai năm, vẫn nằm trong thời kỳ tang. Thời gian hai năm cũng vẫn chưa đủ để hàn gắn những vết thương trong lòng những người còn sống. Trong lễ này, người ta vẫn tổ chức trang nghiêm, con cháu vẫn mặc đồ tang phục và vẫn khóc giống như Giỗ Đầu và ngày đưa tang, vẫn bi ai sầu thảm chẳng kém gì Giỗ Đầu. Tuy nhiên ngày nay những hình thức này không còn phổ biến.
Sau ngày lễ này hết hai tháng, đến tháng thứ ba người ta sẽ chọn ngày tốt để Trừ phục (còn gọi là Đàm tế) tức có nghĩa là Bỏ tang, người thân sẽ đốt hết những áo quần tang, gậy chống. Sau đó, người đang sống sẽ trở lại cuộc sống thường nhật, có thể tổ chức hay tham gia các cuộc vui, đình đám và người vợ mới có thể đi bước nữa (nếu chồng mình mất). Đây là một buổi lễ vô cùng quan trọng, vì nó là một bước ngoặt đối với người đang sống và vong linh của người đã mất.
Giỗ Thường còn gọi là ngày Cát Kỵ, là ngày giỗ sau ngày người mất từ ba năm trở đi. Cát kỵ nghĩa là Giỗ lành. Trong lễ giỗ này, con cháu chỉ mặc đồ thường phục, không khóc như ngày đưa ma nữa, không còn cảnh bi ai, sầu thảm, là dịp cho con cháu người quá cố sum họp để tưởng nhớ người đã khuất, không còn mời khách rộng rãi như hai lễ Tiểu Tường và Đại Tường.
Ngày giỗ thường được duy trì đến hết năm đời. Đến sau năm đời, vong linh người quá cố được siêu thoát, nên không cần thiết phải cúng giỗ nữa mà nạp chung vào kỳ xuân tế. Nhưng quan trọng hơn là con cháu còn nhớ đến tổ tiên và người đã khuất, thể hiện lòng thành kính. Cúng giỗ không nhất thiết phải quá đắt đỏ, linh đình hay quá cầu kỳ, nhà nghèo chỉ cần có đĩa muối, bát cơm úp, quả trứng luộc thì cũng đã giữ được đạo hiếu với tổ tiên.
Ngày này, khách đến ăn giỗ không còn quá đau buồn như hai lễ Tiểu Tường và Đại Tường trước, có thể mặc trang phục bình thường."
Giỗ là dịp để ta chia sẻ cái nhìn về cuộc sống đời sau theo quan điểm Kitô giáo.
Một số người lành thánh được Tòa Thánh tuyên phong hiển thánh hoặc chân phước, còn ở các trường hợp khác ta không thể võ đoán mà suy xét về hiện trạng của người đã khuất. Với đức tin khiêm nhường và lòng yêu mến dành cho người quá cố, ta kéo dài việc cầu xin với ước mong cho họ sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa.
Ta phải nghĩ đến sự công thẳng của Thiên Chúa nhưng không được vì thế mà quên mất lượng từ bi thương xót không bến bờ của Thiên Chúa, quên mất rằng người gian phi nọ chỉ thưa với Chúa một lời bày tỏ đức tin thì ngay hôm ấy đã được ở với Chúa trên thiên đàng. Đức trông cậy dạy ta phải lạc quan tin tưởng vào tình thương tha thứ và ơn thanh tẩy của Chúa.

50 NĂM THỜ CÚNG TỔ TIÊN - Chia sẻ 31: BỮA CƠM CHAY
Trên đường tìm những phương thức để nối kết dòng họ, tôi có dịp gặp gỡ một số đạo hữu Cao Đài và có chung với nhau những kỷ niệm đẹp.
Trong những bản sao gia phả từ những địa phương khác nhau của Hà Tĩnh, có một vị ở đời thứ tư, ông Võ Mạnh, hầu như mọi bản sao đều ghi là "vô tự" (không con nối dõi), chỉ riêng bản của từ đường La Mạc, xã Phong Thịnh, ghi rằng hậu duệ của vị này hiện phát triển tại Phù Mỹ, Bình Định; một người trong nhánh này là Chánh Quản cơ Võ Vệ đã về tìm họ. Tôi đã sao quyển gia phả này ra nhiều chục bản và đi Phù Mỹ tìm nhưng không gặp được manh mối.
Tháng Mười, 2012, sau tang lễ một bà cụ họ Võ, ông Trưởng ban Liên lạc họ Võ Công giáo Bình Định cho biết có người nhờ ông chuyển cho tôi một bản gia phả. Người này chưa hề biết bản gia phả Phong Thịnh tôi đang phát hành. Ông ta chỉ còn giữ được không đầy mười trang chắp vá rơi rớt lại từ một công trình gia phả, nay muốn nhờ tôi xem và cho ý kiến. Tôi cầm lên xem thì, chao ôi, ngay ở trang đầu tiên, danh tính người tôi đang đi tìm được tô đậm: Ông VÕ VỆ, thời Tự Đức. Chỉ sót lại mấy trang nhưng cũng đủ thông tin để có thể xác lập liên quan giữa người đang sở hữu gia phả với gốc tổ Hà Tĩnh. Người tặng tài liệu nhận tôi làm anh vì ông tổ của tôi là trưởng tộc, còn ông tổ anh ta là em trai thứ tư.
Tiếp đó, một cụ niên trưởng người lương đã chở tôi bằng xe máy, từ sáng sớm đến trưa, đưa tôi đến thăm bốn từ đường nằm trên địa bàn ba huyện khác nhau của tỉnh Bình Định: Tuy Phước, Phù Cát và An Nhơn. Bất ngờ trong chuyến đi lại có được một thông tin hết sức quý mà tôi chưa hề nghĩ tới, chưa hề mong chờ.
Nhánh thứ nhất chúng tôi đến thăm là chi tộc Võ Tấn ở thôn An Lợi, phát xuất từ tỉnh Hà Nam. Rời An Lợi chúng tôi đến thôn Vân Triêm cũng gọi là Vân Tập, thuộc xã Cát Chánh huyện Phù Cát. Ở đây có hai từ đường họ Võ phát xuất từ Vũng Tô, phái nhất và phái nhì. Cụ Võ Kế Đức gọi điện đến ông Võ Lục ở tận Gia Lai hỏi số điện thoại của vị quản lý từ đường phái nhất. Ông Lục xin chuyển máy điện thoại cho tôi và bảo:
- Họ Võ của chúng tôi phát xuất từ huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Thạch Hà là huyện quê nhà của tôi. Không dám tin vào tai mình, tôi hỏi lại:
- Ông bảo sao: Từ huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh?
Một thông tin đến từ phía không ngờ, từ một người chúng tôi gọi chỉ để xin số điện thoại người khác. Thông tin này trở thành chủ đề cho câu chuyện của chúng tôi tại ba từ đường chúng tôi đến thăm hôm ấy. Trong bữa ăn trưa, các vị hiện diện đã yêu cầu tôi giúp tìm gạch nối giữa tổ phụ Võ Quang Biều và gia phả Thạch Hà.
Bảng tông đồ 14 đời được phục chế đang trưng bày ở nhà cụ Võ Kế Đức lên tới tổ Võ Quang Biều. Ông Võ Quang Biều và con trai ông là những võ quan chỉ huy một chiến thuyền. Vì một lý do nào đó, thuyền bị chìm, có nguy cơ bị kết án nặng, cho nên họ đã chạy trốn vào tận Vũng Tô, một thung lũng nhỏ ven biển nằm khuất giữa ba mặt núi (nay thuộc thôn Tân Thanh, xã Cát Hải).
Trong gia phả Hà Tĩnh những thế kỷ xa xưa không thấy có ai mang tên Biều. Tuy nhiên với chút kinh nghiệm luận giải gia phả đã học, cuối cùng tôi đã kết luận được vị tổ ấy là ai trong bản gia phả Hà Tĩnh và tại sao hai tên gọi khác nhau chỉ là một người.
Tôi thông báo kết quả và mời các vị đại diện tới phòng tôi ở Tòa Giám mục Qui Nhơn trao đổi để soi sáng thêm cho luận giải của mình. Ngoài cụ Đức, năm vị đại diện ba nhánh kia đều là tín hữu Cao Đài. Có thêm bốn anh em các nhánh Công giáo cũng được mời tới gặp gỡ. Mọi người phấn khởi khi nối được gia phả với gốc xưa. Kết thúc đã 11 giờ. Tôi mời mọi người đi ăn trưa. Cả bốn vị là chức sắc Cao Đài xua tay:
- Xin lỗi huynh, bọn đệ ăn chay. Để bọn đệ tự liệu lấy.
- Thôi mà, nể nhau một bữa, mừng ngày nhận ra nhau là anh em, phá lệ ăn cơm người Công giáo nấu xem có ngon lành gì không!
- Không được. Bọn đệ đã phát nguyện ăn chay trường.
- Đùa thôi. Bây giờ đến lượt tôi phải kêu gọi các vị Công giáo, xin mời tất cả cùng đi dùng cơm chay với quý huynh đệ Cao Đài.
Tôi đã đặt sẵn cơm chay tại quán Thanh Minh ở đường Phan Bội Châu, chủ quán là một ông biện giáo xứ Chính Tòa Qui Nhơn.
*
Khi tôi nêu câu hỏi tại sao Đạo Chúa có mặt ở Việt Nam đã gần 500 năm mà không thấy dòng tu nào đưa việc ăn chay lạt vào chọn lựa của mình, nhiều người bảo rằng vì chay lạt ôm theo lòng tin về luân hồi. Tôi lại nghĩ khác, bạn có thể kiểm chứng ngay bên cạnh bạn rất nhiều người thực hành chay lạt cho dù không hề tin luân hồi. Để ý kỹ ta sẽ thấy tự thâm sâu, những người thờ cúng Ông Bà không hẳn đã tin vào luân hồi. Dựa trên tập tục chỉ giữ bài vị ở nhà năm đời, sang đời thứ sáu thì đem gộp chung ở từ đường hoặc đem chôn, người ta nói rằng người chết ở với con cháu năm đời rồi sau đó đi đầu thai. Trong thực tế thì dù đã sáu bảy đời hay mười mấy đời, con cháu vẫn tin rằng Tổ tiên đang ở đó và vẫn chân thành cầu khẩn.
Quan niệm chay tịnh của người Công giáo và người lương khác nhau, một bên nhằm chia sẻ với những đau thương của Chúa Cứu Thế trong cuộc Thương khó, một bên nhằm phát huy lòng nhân từ, nhưng trước đó cả hai bên đều có cùng một điểm chung, và cũng là điểm chung với nhiều người thiện chí, muốn tiến bước trên đường “tâm linh”: Sự thanh tẩy giác quan. Việc nhịn đói, kiêng thức ăn động vật, bỏ thuốc lá hay bỏ rượu đều là những nỗ lực nhằm làm chủ giác quan, vượt thoát những đòi hỏi của giác quan để tiến bước trong tự do, không bị bản năng trói buộc. Để đặt vấn đề loan báo Tin mừng cách nghiêm túc, đạt được kết quả, người Công giáo không thể thoái thác cuộc chạy đua trong việc làm chủ giác quan.
Bản thân tôi vẫn thường xuyên dùng thực đơn chay lạt, chẳng phải vì tôi thương xót các con vật nhưng chỉ vì tôi rất yêu quý bà con lương dân và các Phật tử quanh tôi, khao khát đồng cảm với tâm nguyện tốt lành của họ để cầu nguyện cho họ được ơn đức tin. Không riêng tôi mà thiết tưởng hiện đang có không ít anh chị em Công giáo khác cũng cùng chung một tâm nguyện ấy. Chắc hẳn cả những anh chị em lương dân bán tín bán nghi về chuyện luân hồi, khi biết có nhiều người tin Chúa thực hành chay lạt, họ sẽ hiểu ra phải tin theo bên nào mới đúng.

50 NĂM THỜ CÚNG TỔ TIÊN - Chia sẻ 32: CƠM CHAY TRÊN BÀN THỊT CHÓ
Tết Quý Tỵ, Trung ương Dòng họ từ Hà Nội viết thư cho hai vị khác và cho tôi, yêu cầu cả ba hợp tác xúc tiến thành lập Hội đồng Dòng họ Vũ-Võ tỉnh Bình Định. Đó cũng là lúc Ban Liên lạc Võ tộc Công giáo tỉnh Bình Định đang chuẩn bị cuộc sinh hoạt lần thứ tư. Đoàn hành hương lần ấy khoảng 250 người, trong đó chừng một phần tư ngoài Công giáo, đã đi thăm bốn từ đường người lương và dừng chân dâng lễ và ăn trưa tại một nhà thờ Công giáo, nơi có mộ một vị tiền hiền Công giáo họ Võ. Trong dịp này, vị nhận lời làm Chủ tịch Ban Chấp hành lâm thời của Dòng họ tại Tỉnh Bình Định đọc lá thư của Trung ương, rồi vạch ra phương hướng xây dựng và tổ chức Đại hội cấp Tỉnh.
Tôi nhận lời tham gia làm một ủy viên thường trực của Ban Chấp hành Hội đồng Dòng họ Vũ-Võ tỉnh Bình Định. Nhờ đó, tôi có dịp theo anh em trong Ban thường trực đến dự sinh hoạt tại các huyện và được gặp gỡ thêm rất nhiều người cùng chung một mối đồng cảm về Dòng họ. Lắng nghe những chia sẻ tại những sinh hoạt ấy, tôi càng thấy rõ đây là thời của những cơn mưa ơn phước. Lúa chín đầy đồng và có ai đó đã gặt chất nghều nghệu trên bờ ruộng, chỉ còn việc đem về nhà, tiếc rằng người ta chểnh mảng không chịu thu hoạch đem về cho nên lũ lại cuốn trôi tất cả.
Vị đứng đầu Ban Chấp hành Dòng họ chúng tôi tại Tỉnh này mấy lần ngỏ lời muốn nhóm thường trực gặp nhau trong một bữa ăn tại một nhà xứ nào đó. Có lẽ vì sinh hoạt liên kết Dòng họ của chúng tôi ở đây do anh em Công giáo khởi xướng cho nên ông muốn có một dịp bày tỏ thân tình. Tôi ở nhà hưu dưỡng, không có điều kiện. Đang khi đó, sáu trong bảy người của nhóm này có quen biết linh mục nhạc sĩ Ánh Đăng. Tôi ngỏ lời và cha Ánh Đăng sẵn sàng mời và cũng sẵn sàng đáp ứng theo thực đơn vị ấy đề nghị: thịt chó.
Gần tới ngày hẹn, cha Ánh Đăng gọi cho tôi:
- Trong bảy người, có một phụ nữ, bà ấy ăn thịt chó được không?
- Mình không rõ, nhưng vấn đề có thể chạm đến một trong mấy người đàn ông: Ông ta là một dược sĩ, 65 tuổi, ăn chay lạt mỗi tháng 12 ngày.
- Làm thế nào bây giờ?
- Anh cứ giúp cái thực đơn kia, còn đồ chay, tôi sẽ nhờ người làm và đem tới.
Tôi khá thân với vị dược sĩ. Ông rất linh động, gặp ngày chay, người ta mời gì ông vẫn ăn nấy rồi ăn chay bù lại ngày khác sau. Tôi đặt đồ chay không chỉ để tỏ lòng kính trọng ông mà còn để ông biết trong Hội thánh Công giáo vẫn có người đồng hành với ông. Hôm ấy, người khách phụ nữ ăn thịt chó nhưng một tài xế rất trẻ lại ăn chay. Phía ăn chay có ba người: vị dược sĩ, cậu tài xế và một linh mục. Phía ăn mặn có hai linh mục, một giáo dân và bốn người ngoài Công giáo. Bên nào cũng có nửa ký và nửa cân.
Chẳng phải tôi lập dị nhưng tôi ước mong xóa bỏ một cái nhìn “bất công” đối với người Công giáo, có thể là do bị gán ghép, mà cũng có thể chính người Công giáo Việt Nam có phần chịu trách nhiệm về ngộ nhận này. Lắm nhà truyền giáo phương Tây chỉ vừa nghe mấy tiếng “ăn thịt chó” đã đủ thấy buồn nôn! Họ lấy làm “quái gở”, không hiểu được tại sao một số dân tộc Viễn Đông lại ăn thịt cả giống vật trung thành và gần gũi với con người đến thế! Như vậy, nếu ta ăn thịt chó chính vì ta là người Việt Nam chứng không phải vì ta là người Công giáo. Thế mà ngày nay anh chị em lương dân lại nghĩ rằng ăn thịt chó là tệ tục của người Công giáo, do người Công giáo bày đầu! Nguyên cớ vì đâu? Thiết tưởng, vì lợi ích tối thượng của Tin mừng, mỗi người chúng ta cần suy nghĩ lại và cẩn trọng hơn về chuyện này.
Dấn thân truyền giáo, tôi nhận ra rằng thuở ban đầu người Việt hăm hở đón chào Tin mừng cứu rỗi vì khám phá ở đó những giá trị trổi vượt hẳn những gì họ đang có. Cả tín lý và luân lý Công giáo đều hợp lý, trong sáng và cao cả, đáng tin nhận. Thừa sai Marie André Garin (cố Châu), nhà truyền giáo trẻ 31 tuổi (1854-1885), làm việc tại Quảng Ngãi chưa đầy sáu năm, đã rửa tội hơn 1.200 người lớn và hơn 10.000 trẻ nhỏ. Người ta háo hức theo tôn giáo của ông Tây trẻ tuổi, nói tiếng Việt trọ trẹ, vì nhận thấy ở đó những giá trị cao cả mà tập tục văn hóa cổ truyền không sao sánh được.
Thế nhưng ngày nay mọi chuyện không còn đơn giản như thế. Có những tài liệu xuyên tạc Đạo Chúa, bắt đầu với “Tây Dương Gia Tô bí lục” và tiếp tục với nhiều sách báo, phim ảnh và những trang mạng vu khống, bôi nhọ Đạo Chúa, bởi thế mà anh chị em lương dân hiện đang có những ấn tượng xấu rất khó phai mờ về người Công giáo.
Bên cạnh đó, cuối thế kỷ XIX, sách vở Phật giáo đều bằng ngoại văn và chưa phổ biến rộng rãi đến đại chúng; còn cuối thế kỷ XX, kinh điển Phật giáo được dịch ra quốc ngữ, nhiều tác phẩm trình bày về Phật giáo cách mới mẻ và lôi cuốn.
Ngôn ngữ Phật giáo xây nền trên vốn từ Hán Việt, có bề dày hàng chục thế kỷ, càng đào bới càng sâu. Đang khi đó, ngôn ngữ của giới Công giáo có hai phần: Những kiểu nói thuần nôm sớm bị lỗi thời, những kiểu nói vay mượn của Hán Việt thì chưa sàng lọc đủ, hỗn độn, không thống nhất… Cả hai đã khiến cho văn chương nhà đạo bị đẩy lùi và gạt sang bên lề dòng văn học của cộng đồng dân tộc… Thay vì sức hút mãnh liệt của thuở đầu, ngày nay sách vở nhà đạo lại gây dị ứng, khó được tiếp nhận.
Thêm vào đó, Phật giáo được lan truyền bằng con đường thực hành, bằng chứng nghiệm bản thân, phù hợp với nếp sống của người Á Đông, tạo nên cho đại chúng tín đồ một trào lưu xác tín mạnh mẽ. Những ai đã tiếp cận với thiền định và chay lạt đều cảm thấy rằng đó là những giá trị khó thay thế.
Đang khi đó, người Công giáo Việt Nam lại chạy đua phát triển sinh hoạt các giáo xứ thay vì chạy đua trong việc thể hiện các giá trị Tin mừng. Các giáo xứ tạo nên cảm giác ổn định nhưng có lẽ chính sự ổn định ấy đã vô tình khiến cho Đạo Chúa bị phá giá. Thay vì là niềm vui phấn đấu của dòng người lữ hành về quê Trời, đám dân của Chúa thích định cư trên trần thế, trở thành tôn giáo của đám đông, của các hình thức lễ hội, khiến sức đổi mới cuộc sống ngày càng bị yếu đi, không toát ra được những giá trị sâu thẳm và cao vượt như thuở ban đầu. Giữa lòng xã hội tiêu thụ, chủ nghĩa tương đối không bành trướng nơi các cộng đồng Công giáo Việt Nam về mặt lý thuyết nhưng hình như nó hoàn toàn thắng thế về mặt thực hành…
Trước mắt người Công giáo đang mở ra một cuộc chạy đua với anh em Tin lành và chạy đua với các tôn giáo phương Đông: chạy đua về các giá trị. Quả là một thách đố hết sức lớn nhưng đồng thời, với ơn Chúa, đây lại đang là một cơ hội có một không hai để tiến nhanh vượt bậc.
Khi biết nhìn nhận thiện chí và những kinh nghiệm của anh chị em lương dân, như sự thinh lặng và chay tịnh, chúng ta sẽ có thêm những điều kiện mới để sống triệt để các giá trị Tin mừng. Qua đó, anh chị em lương dân sẽ thấy rõ thiện chí của chúng ta, và đến lượt họ, sẽ mở rộng cửa lòng để đón nhận ánh sáng của ơn cứu rỗi.

50 NĂM THỜ CÚNG TỔ TIÊN - Chia sẻ 33: TỎA SÁNG CÁC GIÁ TRỊ VÀ TÂN PHÚC ÂM HÓA
Giữa lúc xã hội quay cuồng với văn minh tiêu thụ, đang âm thầm lan tỏa một niềm khao khát các giá trị tinh thần, ngay cả nơi những bạn trẻ rất ít tuổi. Trào lưu ấy đòi hỏi chúng ta, nếu muốn loan báo Tin mừng, phải có kế sách tỏa sáng các giá trị Tin mừng trong cuộc sống.
Chúng ta có những giá trị nổi bật: chân thật, công bằng, bác ái, bảo vệ sự sống… Người Công giáo sẵn lòng chịu thua thiệt nhiều điều khi họ ý thức được giá trị Tin mừng của nghèo khó, sẵn lòng bán sạch mọi thứ để mua được viên ngọc quý Nước Trời. Tuy nhiên có thể những giá trị ấy đang bị lu mờ do nhiều anh chị em thiếu ý thức, không còn cố gắng phát huy. Trong khi đó, có một giá trị đang thách đố người Công giáo Việt Nam chạy đua thực hiện: chay lạt.
Mỗi lần tham gia bàn thảo chọn ngày họp mặt đồng tộc có chuyện ăn uống đi kèm, tôi thường nghe người ta cân nhắc để tránh ngày rằm và mùng một, nghĩa là tránh ngày chay lạt. Tỉ lệ số người thực hành chay lạt khá  lớn. Nhiều người ăn chay để cầu phúc, để được thành công, buôn may bán đắt. Tuy nhiên nhiều phụ huynh khuyên con cái ăn chay vì mục đích giáo dục. Họ mong muốn cho con em biết sống thanh thoát, nhân ái, điềm đạm. Chay lạt gia tăng lòng nhân ái. Nó dạy trẻ em tôn trọng cả con muỗi, con kiến. Giống hệt tâm niệm của các hướng đạo sinh sói con: “Hướng đạo sinh yêu thương loài vật”. Nếu với những con vật bé nhỏ làm hại ta mà ta còn nhân từ tha thứ, tôn trọng mạng sống của chúng thì không có lý do gì đế ta được nóng giận với người đồng loại. Nhờ ăn chay, bạn trẻ biết sống hiền lành, nói năng nhỏ nhẹ, lịch thiệp. Đó là chưa kể những lợi ích về dinh dưỡng, giúp tránh nhiều bệnh tật, đã được khoa học chứng nghiệm. Những bạn trẻ này thường không biết gì về giáo lý nhà Phật nhưng họ xác tín giá trị của chay lạt và sẽ không chấp nhận một chọn lựa nào chống lại xác tín ấy.
Nói thật ra, có lẽ nhiều người tưởng rằng kiêng cả thịt lẫn cá là điều gì khó lắm. Trong thực tế không khó gì cả. Nhất là nếu chúng ta có tấm lòng nghĩ đến phần rỗi của anh chị em lương dân, chúng ta sẽ thấy chay lạt là điều lý thú và có lợi nhiều mặt. Còn nếu đã ngại hy sinh cố gắng thì chắc hẳn bao giờ cũng có thể vịn hết cớ này đến cớ nọ để lẩn tránh.
Trước đây, việc kiêng thịt ngày Thứ Sáu đã thành thông lệ. Người nội trợ Công giáo đi chợ nhớ ngay rằng Thứ Sáu không mua thịt. Xã hội bên ngoài cũng nhìn nhận điều ấy như một thực tế. Hằng tuần cứ tới Thứ Sáu là lượng thịt bán ở chợ tự động giảm hẳn, tôm cá được bày bán nhiều hơn. Người ta đã lấy cớ thời chiến để xin Tòa Thánh chuẩn miễn việc kiêng thịt. Nay thời chiến đã lùi vào quá khứ đến gần bốn mươi năm và Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo 1992 vẫn khẳng định điều răn kiêng thịt nhưng chẳng hiểu tại sao người ta lại cứ lờ đi.
Để việc truyền giáo đạt kết quả, cần khẳng định lại việc kiêng thịt ngày thứ Sáu, và đi xa hơn một bước nữa: kiêng luôn cả tôm cá. Tại đây còn một chi tiết nữa rất đáng suy nghĩ: Người lương giữ chay không do luật buộc mà do tự phát nguyện. Thánh Phaolô cũng từng phát nguyện như thế: “Phạm đến anh em và làm thương tổn lương tâm yếu đuối của họ là phạm đến Đức Kitô! Vì thế, nếu của ăn mà làm cớ cho anh em tôi sa ngã, thì tôi sẽ không bao giờ ăn thịt nữa, để khỏi làm cớ cho anh em tôi sa ngã” (1Cr 8,12-13).
Vấn đề chính yếu ở đây là cần chia sẻ quan niệm về chay tịnh của phương Đông là tôn trọng sinh mạng của muôn loài. Không phải là chay trường, chỉ cần giữ tất cả các ngày Thứ Sáu, mỗi tháng được bốn ngày, cũng bằng ba mươi, mùng một, mười bốn và rằm cộng lại.
Trong bài "Những nẻo đường hồn nhiên của Tin mừng - 9" giới thiệu trên mạng internet đầu năm 2010, tôi đã kể về kinh nghiệm chay lạt của bản thân tôi. Qua kinh nghiệm ấy, tôi hiểu tại sao người ta quý chay lạt. Những người đã phát nguyện ăn chay trường khó mà từ bỏ điều ấy để theo Kitô giáo. Những người chưa qua kinh nghiệm chay trường ít lâu, khó hiểu được rằng người giữ chay lạt cảm nhận sự thanh cao của nó và quý trọng chẳng khác nào người tu sĩ Công giáo cảm nhận và quý trọng ơn độc thân khiết tịnh.
Với kinh nghiệm ấy, tôi nhận ra một lý do hệ trọng lý giải tại sao ngày nay không còn hiện tượng người Việt theo Kitô giáo ồ ạt như mấy thế kỷ đầu của cuộc truyền giáo. Xưa kia người dân ồ ạt tin theo Đạo Chúa, vì nhận thấy ở đó những giá trị cao cả mà văn hóa cổ truyền không sao sánh được. Ngày nay anh chị em lương dân từ chối theo Đạo Chúa cũng vì lý do tương tự. Họ khám phá và xác tín sự cao quý của chay lạt cùng những hiệu quả tự nhiên và tâm linh phát xuất từ chay lạt: sự hiếu hòa, lòng từ bi nhân ái, sự từ bỏ, một thân xác và tâm hồn thanh tịnh, sự hòa hợp với thiên nhiên đã khơi nguồn và thấm sâu vào tâm hồn họ nhờ chay lạt. Họ xác tín không phải do xưa bày nay làm nhưng với những sách vở và chứng nghiệm rất rõ theo khoa học. Lập luận hết sức đơn giản: Tại sao phải bỏ một con đường có những giá trị cao cả như thế để đi theo một con đường thiếu vắng những giá trị ấy?
Tôi viết bài này không phải để đề nghị các Bề Trên trong Giáo hội buộc giáo dân ăn chay lạt. Sự thành công và thuyết phục của chay lạt chính là ở chỗ nó không hề là một luật buộc nhưng là một giá trị cuốn hút. Do đó điều tôi khao khát là thấy Giáo hội nhiệt liệt cổ võ cuộc chay đua áp dụng chay lạt cùng lúc với sự cổ võ sống tinh thần nghèo khó, khiết tịnh và vâng phục, để lấy tình yêu hữu hạn của ta đền đáp Tình yêu vô cùng của Thiên Chúa. Cổ võ chứ không buộc. Cổ võ để mỗi người tự buộc lấy mình bằng sự phát nguyện. Phát nguyện là tự cam kết với lòng, với Đấng mình tin tưởng; riêng đối với Kitô hữu, phát nguyện là tự lòng mình cam kết với Chúa.
Ở đây ta thấy có hai hướng sư phạm khác nhau: bó buộc và mời gọi, với kết quả rất chênh lệch: tối thiểu và tối đa. Một bên là ngọn đèn leo lét phụt tắt trước chút gió nhẹ, một lên là ngọn lửa bừng cháy, càng gặp gió mạnh càng bốc cao. Không chỉ chênh nhau về mức độ, bên này so với bên kia còn vượt hẳn lên một bình diện mới. Một bên dừng lại ở câu hỏi luân lý: điều gì được phép và điều gì không? Một bên vươn tới câu hỏi hướng thần: điều nào đẹp lòng Chúa hơn?
Hiểu như thế, ta có thể đem áp dụng vào đây lẽ khôn ngoan của vị nữ Tiến sĩ Hội thánh đang được dọn mừng kỷ niệm 500 năm ngày sinh (1515-2015) là Thánh nữ Têrêxa Chúa Giêsu. Theo ngài, lộ trình tâm linh của người Kitô hữu có bảy bước, với sáu mục tiêu có tính giai đoạn, trước khi đạt tới giai đoạn bảy với mục tiêu cuối cùng là được hiệp nhất với Thiên Chúa trong tình yêu. Trên lộ trình ấy, khi đạt tới giai đoạn thứ ba là sự hoàn thiện luân lý, đừng tưởng đó là đỉnh cao nhất để khỏi dừng lại rồi bị thụt lùi thê thảm.
Tân phúc âm hóa là dậy men, là tỏa sáng. Người ta nhận lấy chất muối, chất men, chất sáng Chúa ban rồi quảng đại chia cho người khác. Cả nhận và cho đều là tự nguyện, chứ không có gì bó buộc. Xã hội bó buộc và biến con người thành ấu trĩ; chính vì thế xã hội đã thất bại đau thương. Tôn giáo mà đi theo con đường bó buộc, kết quả cũng sẽ không khác mấy.
Như thế, đặt vấn đề tân phúc âm hóa cũng là đặt lại vấn đề sư phạm trong Hội thánh Công giáo: Ta sẽ không chọn sư phạm bó buộc của luân lý nhưng chọn sư phạm mời gọi của Tin mừng: “Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn... Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” (Mt 19,17.21). Vâng, nếu bạn muốn. Nếu bạn muốn, hãy phát nguyện, hãy cam kết như các tu sĩ hoan hỉ hiến hết đời mình cho ba lời khuyên Tin mừng, và nhờ đó mọi người nhận ra chỉ một mình Chúa Giêsu Kitô đáng cho ta yêu hết dạ hết lòng và trên hết mọi sự.
Tôi không chờ đợi những quyết định của các Bề Trên trong Giáo hội nhưng chờ đợi sự hưởng ứng của chính bạn, người đang đọc những dòng này. Càng có thêm những Kitô hữu biết nhìn nhận và thể hiện những giá trị cao quý sẵn có của anh chị em ngoài Kitô giáo, những anh chị em ấy sẽ mở rộng lòng với những giá trị cao quý gấp bội của Tin mừng.
Ước mong các đồng đạo trẻ của tôi, cách riêng là những người tận hiến trẻ, sẽ nhập cuộc nghiên cứu vấn đề này, không chỉ trên giấy bút nhưng trước hết bằng thực nghiệm bản thân. Rồi các bạn và tôi, không những chúng ta sẽ gặt hái được những ích lợi phần xác và phần hồn cho chính mình mà còn được đón nhận cả những linh hồn tuyệt vời của các anh chị em lương dân của chúng ta nữa.

Tác giả:  Lm. TTT. Võ Tá Khánh

Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2013

Tháng đại xá

Tháng đại xá 03-11-2013 | Trầm Thiên Thu 
Tháng Mười Một huyền ảo trong làn khói tỏa nghi ngút từ những nén nhang tại các gia đình, trong các nhà thờ và ở các nghĩa địa, cùng với những ánh sáng lung linh từ những ngọn đèn, cây nến,… Đó là biểu hiện bề ngoài mang đậm dấu ấn tâm tình lồng trong từng thánh lễ, lời kinh nguyện, việc bác ái, sự hy sinh,… của những lữ-khách-trần-gian thành kính dâng lên Thiên Chúa để xin đại xá cho các đẳng linh hồn. Nét đạo đức và vẻ thánh thiện ấy đẹp biết bao, chắc chắn Thiên Chúa rất vui lòng mà phóng thích các linh hồn thoát khỏi chốn cực hình khốn khổ! 
Tháng Mười Một là Tháng Đại Xá, vì có biết bao ơn đại xá được thực hiện dành cho các linh hồn. Tháng Mười Một cũng là Tháng Bổn Phận, Tháng Yêu Thương, Tháng Đền Ơn Đáp Nghĩa, vì những người còn lưu ký trần gian có dịp đền đáp công ơn của các vị tiền nhân – tổ tiên, ông bà, cha mẹ,… 
Tháng Mười Một nhắc nhở mỗi người chúng ta đều phải “uống nước nhớ nguồn” và “ăn cây nào rào cây nấy”, không chỉ cố gắng sống Hiếu Thảo trong cuộc sống đời thường mà còn cả trong đời sống tâm linh. Tháng Mười Một đẹp thật! Đẹp vì bao hồng ân và ơn nghĩa hòa quyện thành khối yêu thương kính dâng Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Tháng Mười Một còn đẹp vì trời đất đang mùa Thu, thiên nhiên biến đổi, không khí chuyển lạnh, cây cối thay lá,… Ở các nước Tây phương có những loại lá với nhiều sắc màu, rực rỡ như hoa, thế nên người ta gọi lá chính là “hoa của mùa Thu”. Tháng Mười Một nở rộ Hoa Linh Hồn, những Tân Thánh Nhân được nhập đoàn Chư Thánh nơi Thiên Quốc. 
Tháng Mười Một là lúc bước gần cuối năm, một năm kết thúc gợi nhớ thời điểm chấm dứt đời người. Những chiếc lá vàng úa gợi nhớ sự từ giã trần gian, người này chia tay những người khác để bước vào cõi vĩnh hằng. 
 2 Mcb 12:43-46 cho biết: “Ông Giuđa quyên được khoảng hai ngàn quan tiền, và gửi về Giêrusalem để xin dâng lễ đền tội; ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quý này vì cho rằng người chết sẽ sống lại. Thực thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho người chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn. Nhưng vì ông nghĩ đến phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đã an nghỉ trong tinh thần đạo đức. Đó là lý do khiến ông đến dâng lễ tế đền tạ cho những người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi”
Chúng ta vẫn luôn tin rằng “xác người ta sẽ sống lại”, và khi linh hồn ra khỏi luyện ngục thì sẽ được vào Thiên quốc, thế nên chúng ta tích cực và chân thành cầu xin Thiên Chúa tha hình phạt cho các linh hồn nơi luyện ngục. Và rồi chính những linh hồn đó sẽ cầu bầu cho chúng ta. Không chỉ từ ngày 1 tới ngày 8 tháng Tháng Mười Một, mà là cả Tháng Mười Một, thậm chí là hàng ngày trong suốt năm, chúng ta vẫn có thể lãnh ân xá và làm các việc lành để nhường cho các linh hồn. Dù một việc rất nhỏ, và dù chỉ là việc cá nhân, nhưng chúng ta làm vì yêu mến Chúa và cứu các linh hồn, thì việc nhỏ đó vẫn được Thiên Chúa coi là công phúc, độc đáo là người này có thể làm việc lành thay cho người khác. Thiên Chúa quá đỗi “hào phóng” với chúng ta..........

Thứ Ba, 29 tháng 10, 2013

Nhà thờ chính tòa Đà Lạt

Nguồn gốc lễ Cầu hồn và tháng Các linh hồn

Nguồn gốc lễ Cầu hồn và tháng Các linh hồn
Theo Xuanha
Theo sách vở ghi lại, thì thánh Odilo (962- 1048) là viện phụ đan viện Cluny. Đan viện này thời đó nằm trong phần đất của đế quốc Germany.

Ngài là người thánh đức, thường cầu nguyện, hi sinh , và dâng lễ cầu cho các linh hồn đã qua đời.

Truyện kể rằng:

Một hôm, một đan sĩ Dòng ngài đi viếng Đất thánh Giêrusalem. Trên đường trở về Đan viện Cluny. Tàu chở đan sĩ bị bão đánh giạt vào một hòn đảo. Tại đó, đan sĩ gặp một ẩn sĩ và được ẩn sĩ cho biết:

"Trên đảo này có nhiều hang lửa, trong hang có nhiều người bị hành hạ, đánh đập. Tôi thường nghe các tên quỉ phàn nàn với nhau về Viện phụ Odilo và các đan sĩ Dòng của ngài rằng: ngày nào họ cũng giải thoát một số linh hồn ra khỏi hang lửa đó. Vì thế, xin thầy về nói với cha Odilo và các anh em trong Dòng cứ tiếp tục cứu giúp các linh hồn đau khổ. Đó cũng là niềm vui cho các thánh trên Thiên đàng và là sự đau khổ cho quỉ dữ dưới Hỏa ngục".


Sau khi nghe biết sự việc này, cha Odilo đã lập lễ Cầu hồn vào ngày 2 tháng 11 và trước hết cử hành trong đan viện Cluny của ngài vào năm 998 (có sách nói năm 1030). Về sau lễ cầu hồn đã được truyền sang nuớc Pháp, và tới giữa thế kỉ 10, Đức Giáo hoàng Gioan 14 đã lập lễ Cầu hồn trong Giáo hội Rôma.

Từ thời đó, nhiều nơi đã có thói quen cầu nguyện tuần chín ngày cho các linh hồn, họ đi thăm viếng, sửa mồ mả cha ông. Vào buổi chiều lễ Các Thánh, có những người đi từng nhà xin quà cho các linh hồn, họ hát những bài ca cổ truyền cổ động cầu cho các linh hồn mau ra khỏi Luyện ngục.

- Tại nước Hungary, người ta gọi ngày 2/11 là "Ngày người chết". Ngày đó, người ta có thói quen tụ họp các trẻ mồ côi tới gia đình họ rồi cho chúng ăn, cho quần áo, cho quà bánh, đồ chơi.

- Tại miền quê nước Poland, người ta kể: nửa đêm lễ Cầu hồn, người ta thắp sáng nhà thờ giáo xứ, để các linh hồn trong xứ đã qua đời về quanh bàn thờ cầu ơn giải thoát khỏi luyện ngục. Người ta nói là, sau đó trở lại thăm lại nhà mình, thăm nơi mình quen thuộc, làm việc mình đã làm khi còn sống. Và để đón tiếp những linh hồn này, người ta để cửa sổ mở suốt đêm mùng 2.

...........

- Tại Việt nam, nhất là miền Bắc, trước Công đồng Vaticanô 2 (62-65) người ta thường sửa mồ mả cha ông vào dịp Tết Nguyên đán đầu năm Âm lịch, tính theo mặt trăng, còn lễ Cầu hồn, người ta đi viếng các nhà thờ chung quanh suốt ngày lễ Các Thánh để lãnh ân xá chỉ cho các linh hồn đã qua đời. Cảnh người lớn trẻ em tấp nập ra vào rất vui vẻ. Người ta dự lễ và xin lễ rất nhiều để cầu cho Tổ tiên, Ông bà, Cha mẹ sớm về hưởng phước Thiên đàng.

--------------------------

*Thương nhớ người quá cố, nhất là cha mẹ, anh chị em trong gia đình là chuyện tự nhiên của con người.

*Ao ước cho người thân mình được "nghỉ yên muôn đời trong nơi mát mẻ hạnh phúc" cũng là tâm lí thông thường.

*Do đó việc cầu cho người thân đã qua đời là việc cần thiết, vừa cho linh hồn người chết được cứu thoát khỏi Luyện ngục, vừa cho người sống được tỏ lòng hiếu thảo đền ơn.

Những điều trên không những hợp lòng người, mà còn hợp giáo lí trong đạo. Giáo lí Công giáo do Đức Thánh cha Gioan Phaolo 2 ban hành năm 1992 có 3 số như sau:

- Số 1030: Cần có Luyện ngục:

"Những ai chết trong ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh tẩy cách trọn vẹn, thì tuy được bảo đảm về ơn cứu độ muôn đời của mình, vẫn phải chịu một sự thanh luyện sau khi chết, hòng đạt được sự thánh thiện cần thiết để bước vào niềm vui thiên đàng.

- Số 1031: Luyện ngục để thanh tẩy:

"Giáo Hội gọi là luyện ngục là sự thanh luyện sau cùng này của các người được chọn, hoàn toàn khác với hình phạt của những kẻ bị án phạt. Giáo Hội đã trình bày giáo lý của đức tin về Luyện ngục, nhất là tại các Công đồng Florentia (xem DS 1304) và Trentô (xem DS 1820; 1580).


Dựa vào một số bản văn của Thánh Kinh (Chẳng hạn 1 Cr 3,15; 1 Pr 1,7), Truyền thống của Giáo Hội nói đến một thứ lửa thanh luyện:"Đối với một số những lỗi lầm nhẹ, ta phải tin có một thứ lửa thanh tẩy trước ngày Phán xét, theo như những gì mà Đấng là Chân lý đã dạy khi Ngài nói rằng nếu ai nói lời phạm thánh chống lại Chúa Thánh Thần, thì sẽ không được tha cả đời này lẫn ở đời sau" (Mt 12,31). Theo lời quyết đoán này, chúng ta có thể hiểu rằng một số lỗi lầm có thể được tha ở đời này, nhưng một số lỗi khác thì được tha ở đời sau" (Th. Gregoriô Cả, Dial. 4,39).

- Số 1032: Người sống cứu người chết:
"Giáo huấn này cũng dựa vào cách cầu nguyện cho kẻ chết, như được nói đến trong Thánh Kinh: "Đó là lý do tại sao ông Giuđa Macabê đã truyền phải dâng hy lễ đền tội này cho các người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi của mình" (2 Mcb 12,46).

Ngay từ những thời gian đầu, Giáo Hội đã tôn kính việc tưởng niệm các người đã qua đời, và dâng kinh lễ để cầu cho họ, nhất là dâng Thánh lễ( xem DS 856), để họ được thanh tẩy và tiến vào nơi chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Giáo Hội cũng khuyên làm việc bố thí, hưởng các ân xá và thi hành những việc đền tạ để giúp các người đã qua đời:
Chúng ta hãy cứu giúp họ và hãy tưởng nhớ họ. Nếu các con ông Gióp đã được thanh tẩy nhờ lễ hy sinh của cha họ( xem G 1,5), tại sao chúng ta lại có thể hoài nghi rằng những của lễ của chúng ta dâng cầu cho người chết sẽ không mang lại ủi an cho họ? Vậy chúng ta đừng ngần ngại cứu giúp những người đã ra đi, và dâng những kinh nguyện cầu cho họ (Th. Gioan Kim khẩu, Hom. in 1 Cr 41,5).

* Ngày 10 tháng 8 năm 1915, Trong một Tông hiến, Tòa thánh cho các linh mục được dâng 3 lễ vào ngày lễ Cầu hồn: 1 cầu như ý người xin, được lấy bổng lễ, 1 cầu theo ý ĐTC (không bổng) và 1 cầu cho các linh hồn (không bổng). Giáo hội cũng xác định dành trọn tháng 11 dành để cầu cho các linh hồn Luyện ngục.

* Ngày 1 tháng 11 năm 1967, ĐTC Phaolô 6, trong Tông huấn Ân xá đã ban một đại xá với điều kiện thường lệ (xưng tội, rước lễ, cầu theo ý ĐGH) cho những ai "viếng nhà thờ vào Chúa nhật trước hoặc sau, hoặc chính lễ Các Thánh (số 67), và những ai viếng nghĩa địa trong 8 ngày đầu tháng 11 để cầu cho các linh hồn (số 13).

--------------

Tháng cầu hồn ta lo cứu giúp,
Các linh hồn luyện ngục chờ mong,
Thoát ra khỏi ngọn lửa hồng,
Vui về bên Chúa trả công cứu người.

---------------------
Trong mầu nhiệm các thánh thông công, chúng ta cầu cho các linh hồn Luyện ngục, để
khi về Thiên đàng, các Ngài sẽ cầu lại cho ta trước tòa Chúa.

Thứ Sáu, 25 tháng 10, 2013

Suy nghĩ về cuộc đời

Suy nghĩ về cuộc đời
Sài gòn, 25/10/2013: Thắm thoát đã sáu mươi mùa lá rung, cuộc đời tựa như bóng câu qua cửa sổ. Một buổi sáng sớm nghe câu thánh vịnh:
Kiếp phù sinh tháng ngày vắn vỏi,
tươi thm như c ni hoa đồng,
mt cơn gió thang là xong,
chn xưa mình cũng không biết mình
(Tv 103,15-16).
Nhìn lại đời mình đã xanh rêu, khi bước chân ta về đêm đêm nhìn thành phố…Ngày này nối tiếp ngày khác, trôi qua với một tốc độ tăng dần mãi, dường như theo nhịp tiến của chúng ta tới tuổi già. Những ngày của ta trôi qua trên trái đất này giống như một kiếp hoa. Thời giờ cứ đi, đi mãi không ngừng ngày này sang ngày khác không dừng lại, không tiếc xót mà cũng chẳng buồn đau, không ngó ngàng tới ai. Nó lạnh lùng trôi qua và đi trước những con mắt còn tiếc xót, muốn níu thời gian lại. 
Truyện của những ngày qua
Vừa qua nghe tin người Mẹ của bạn vừa rời khỏi kiếp nhân sinh, đi viếng …rồi lại tin người bạn từ hải ngoại về xin lễ giỗ cho Mẹ, mời bạn bè đến dự lễ cầu nguyện….và lại đến dự tiệc cưới và mừng cho con gái một người bạn lập gia đình, trong câu chuyện hàn huyên mọi người lại kể những câu chuyện bè bạn năm xưa, xa xôi ngày tháng ….thằng này phải nằm bệnh viện, thằng kia  phải chăm sóc vợ con, thằng kia không còn nhìn thấy cuộc đời, thằng kia khổ lắm…., Lại xem một chương trình ca múa nhạc nọ nói về thời gian, lại càng thấm thía về cuộc đời. Đã lâu và bọn đàn ông chúng mình chắc cũng ít đi thăm quý phụ nữ sinh nở, nhưng hàng ngày vẫn đón nhận tin vui từ nhiều nguồn: từ facebook,….hay từ con từ cháu; Ông nội hay ông ngoại … là cuộc đời mình đã trải qua bốn chữ: sinh, lão, bệnh, tử. Đón nhận hay chưa đón nhận, mình đều phải chấp nhận:
Thời gian rót từng giọt buồn tê tái
Sự sống đi như hương bỏ hoa chiều.

Nhưng thôi đã là kiếp người ta đã trải qua phải có hỉ, nộ, ái, ố chuyện vui buồn cho có chị có em. Người ta dành đủ thì giờ để lo mọi việc, lo cho tương lai một cách cặn kẽ, nhưng đối với việc của Thượng đế và số phận đời của mình thì người ta lại bảo là không có thì giờ. Hoặc người ta cho rằng thì giờ còn dài, việc đời đời chưa cần, để bao giờ cho đến bao giờ …… hãy hay, bây giờ phải dùng thì giờ vào những việc cụ thể cần hơn.
Suy nghĩ về cuộc đời nhân ngày sinh của một “thằng” sáu mươi năm trước bước vào cửa “sinh” để rồi trở thành “lão” (nhưng vẫn chưa được gọi là ông vì chưa khao lão) và “bệnh” đau liên miên…, chưa đi vào "cửa số 4"  như lời thằng bạn kể cho mình nghe khi vào tòa đại sứ Mỹ phỏng vấn để đi du lịch, ai vào cửa này cũng đều đễ dàng nhận cái chìa khóa OK- có visa ngay để vào thiên đàng nước Mỹ, nhưng đâu phải ai cũng được chọn để vào cửa này đâu? xin kể lại cho chúng ta nghe những câu sau đây trong bài thơ “Sách Sự Sống” :
          Tôi qùi cầu nguyện, nhưng chẳng lâu được; tôi có nhiều việc phải làm. Tôi phải cấp tốc đi làm vì hóa đơn đòi tiền chồng chất.
          Vì vậy, tôi qùi gối, đọc vội một kinh và nhảy đứng dậy. Việc bổn phận Kitô hữu của tôi đã làm xong và tâm hồn tôi thanh thản, bình an.
          Suốt ngày tôi không có thì giờ để buông một lời chào hỏi vui vẻ hoặc nói về Chúa Kitô cho bạn bè vì sợ họ cười nhạo tôi.
          Tôi luôn miệng la lớn : Không có thì giờ, không có thì giờ, nhiều chuyện phải làm quá ! Không có thì giờ để lo cho phần rỗi linh hồn, nhưng cuối cùng giờ chết đã đến.
          Tôi trình diện trước mặt Đức Chúa; tôi đứng với đôi mắt cúi xuống, vì Đức Chúa đang cầm trong tay một quyển sách, sách sự sống.
          Đức Chúa nhìn vào trong sách và nói :”Cha không tìm thấy tên con, vì có lần Cha dự tính viết xuống, nhưng Cha chẳng khi nào có thì giờ”.